Nội dung của bài
Cao dao Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
(Bài ca người thợ mộc)
Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay:
Lựa cột anh dựng đòn tay
Bào trơn, đóng bén nó ngay một bề.
Bốn cửa anh chạm bốn dê
– Bốn con dê đực chầu về tổ tông.
Bốn cửa anh chạm bốn rồng,
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
Bốn cửa anh chạm bốn gà
Đêm thì nó gáy nhà ra làm vườn
Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con trườn ra xa
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen
Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ
Một đèn đọc sách, ngâm thơ
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.
Thanh Hoa là một vùng đất có trung tâm là tỉnh Thanh Hoá bây giờ, nhưng biên giới thay đổi nhiều lúc rộng lúc hẹp, khi là phủ, khi là trấn, là tỉnh. Tên Thanh Hoa chính thức được đặt bắt đầu từ thời thuộc Minh và chấm dứt năm 1840. Thợ mộc xứ Thanh nổi tiếng thời xưa, tục ngữ có câu “Thợ mộc xứ Thanh ở quanh kinh kỳ”.
Bài ca dao Anh làm thợ mộc Thanh Hoa này được Trần Trọng sưu tầm, giới thiệu lần đầu tiên trên báo Văn nghệ ngày 27-7-1962 với tiêu đề Bài ca người thợ mộc.
Khảo dị:
Bài thơ Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
Đồn rằng thợ mộc Thanh Hoa
Làm cửa, làm nhà, cầu quán khéo thay
Cắt kèo lại lựa đòn tay
Bào trơn, đóng bén, khéo thay mọi nghề
Bốn cửa anh trạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông
Bốn cửa anh chạm bốn rồng
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên thì hoa sói, dưới thì hoa sen
Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Trên thì đèn đốt, dưới thì đèn chong
Bốn cửa anh chạm bốn cong
Hai cong kín nước, hai cong để dành
Đồn rằng thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu làm quán làm nhà khéo thay
Đặt cài lại đặt đòn tay
Bào trơn đóng bén lại hay mọi nghề
Bốn cửa anh chạm bốn nghê
Anh rước nàng về thờ phụng tổ tông
Bốn cửa anh chạm bốn rồng
Đêm thì rồng ấp ngày rồng bò leo
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Đêm thì bắt chuột ngày leo xà nhà
Bốn cửa chạm bốn con gà
Đêm thì gà gáy ngày ra ăn vườn
Bốn cửa lại chạm bốn lươn
Tối lên ăn vườn ngày lại xuống ao
Bốn cửa chạm bốn con dao
Dao vàng dao bạc dao nào đồng đen
Bốn cửa lại chạm bốn đèn
Bấc hời bấc hỡi bấc quen với dầu
Anh đi làm thợ nơi nào
Để em gánh đục gánh bào đi theo
Cột queo anh đẽo cho ngay
Anh bào cho thẳng, anh xoay mọi bề
Bốn cửa chạm bốn con nghê
Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông
Bốn cửa chạm bốn con rồng
Ngày thời rồng ấp, tối thời rồng leo
Bốn cửa chạm bốn con mèo
Đêm thời bắt chuột ngày leo xà nhà
Bốn cửa chạm bốn con gà
Đêm thì gà gáy, ngày ra bới vườn
Bốn cửa chạm bốn con lươn
Ngày thì chui ống, tối trườn xuống ao
Bốn cửa chạm bốn con dao
Chăm liếc thời sắc, chăm chào thời quen
Bốn cửa chạm bốn cây đèn
Ngày thời đèn tắt, tối thời đèn chong
Bốn cửa chạm bốn cái cong
Để em gánh nước tưới hồng tưới hoa
Ngày mai khi anh về nhà
Trăm năm em gọi anh là chồng em
Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu làm quán, làm nhà khéo thay
Lựa cột anh dựng đòn tay
Bào trơn, đóng bén nó ngay một bề
Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông
Bốn cửa anh chạm bốn rồng
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà
Bốn cửa anh chạm bốn gà
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn
Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con thì lườn ra
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen
Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ
Một đèn đọc sách ngâm thơ
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây
Nguồn:
1. Báo Văn nghệ, số ngày 27-7-1962
2. Mã Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 (tái bản lần thứ 5)
3. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Kho tàng ca dao người Việt, NXB Văn hoá thông tin, 2001.